Khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015) quy định “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường”. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ, trong đó những người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phải là người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại nêu trên. Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con mình gây ra là một trong số những ngoại lệ đó. Bài viết này phân tích quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con cái gây ra, đưa ra những trường hợp cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường và những trường hợp cha mẹ không chịu trách nhiệm bồi thường khi con cái gây thiệt hại.
>>Xem ngay: Quyền lợi của người lao động khi ngừng việc vì covid 19
Trường hợp cha mẹ phải bồi thường đối với thiệt hại do con gây ra
Theo Điều 37 và Điều 74 Luật hôn nhân và gia đình 2014, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con gây ra theo quy định của BLDS 2015 nếu con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
Người chưa thành niên, theo quy định tại Điều 21 BLDS 2015, là người chưa đủ mười tám tuổi. Người mất năng lực hành vi dân sự, theo Điều 22 BLDS 1015, là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và bị Tòa án tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần khi có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan. Đối với trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, theo quy định tại khoản 3 Điều 586 BLDS 2015, cha mẹ chỉ bồi thường thay cho con nếu cha mẹ là người giám hộ của con. Theo khoản 3 Điều 53 BLDS 2015, cha mẹ là người giám hộ đương nhiên của con đã thành niên mất năng lực dân sự nếu người con chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ.
Như vậy, cha mẹ phải bồi thường đối với thiệt hại do con gây ra trong những trường hợp kể trên. Tuy nhiên, mức bồi thường của cha mẹ có thể khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của con, cụ thể như sau:
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với con chưa đủ mười lăm tuổi
Theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015, cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại nếu con chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại. Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với con từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
Theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015, ưu tiên dùng tài sản của con nếu người con có tài sản riêng để bồi thường thiệt hại. Nếu người con không có tài sản riêng hoặc có nhưng không đủ để bồi thường thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Sự khác biệt trong trách nhiệm bồi thường của cha mẹ trong trường hợp này so với trường hợp trên có thể được lý giải là nhằm mục đích đảm bảo những cá nhân từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải cân nhắc và có trách nhiệm đối với hành vi của chính mình. Bởi lẽ những cá nhân này là người đã có nhận thức và được tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, chỉ trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.[1]
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự:
Trường hợp này, theo quy định tại khoản 3 Điều 586 BLDS 2015, cha mẹ được dùng tài sản của con để bồi thường. Nếu con không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Tuy nhiên, khác với những trường hợp con chưa thành niên gây thiệt hại, đối với thiệt hại do con thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra, nếu cha mẹ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
>>Xem ngay: Bạo hành trẻ em, biết để đừng mắc phải
Trường hợp cha mẹ không phải bồi thường cho con
Là người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do con cái gây ra đối với những trường như đã phân tích. Tuy nhiên, cha mẹ không phải bồi thường thay cho con trong mọi trường hợp mà trong một số trường hợp người con phải tự bồi thường hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được quy cho cá nhân, tổ chức khác.
Trường hợp thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 586 BLDS, người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. Như vậy, đối với con đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ không phải bồi thường thay cho con mà người con tự chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại bằng toàn bộ tài sản của chính mình.
Trường hợp thứ hai, theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015, cha mẹ của người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại sẽ không phải bồi thường thay cho con nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 599 Bộ luật này. Khoản 1 Điều 599 quy định: “Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.” Như vậy, nếu con dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại không kể thiệt hại xảy ra trong hay ngoài khuôn viên trường học, nhà trường đều phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại đó xảy ra trong thời gian trường trực tiếp quản lý học sinh trừ khi trường học chứng minh được mình không có lỗi trong quan lý theo khoản 3 Điều 599 BLDS 2015.
Trường hợp thứ ba, khoản 2 Điều 599 BLDS 2015 quy định: “Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.” Do đó, cha mẹ là người giám hộ của con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự không phải bồi thường thiệt hại thay cho con nếu người con gây ra thiệt hại trong thời gian được bệnh viện hoặc pháp nhân khác trực tiếp quản lý, trừ trường hợp bệnh viện, pháp nhân khác chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý theo khoản 3 Điều 599.
Trường hợp thứ tư, đối với người đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự, nếu người đó đã có vợ, chồng, con và những người này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người giám hộ sẽ là vợ, chồng, con của người đó sẽ được xác định là người giám hộ đương nhiên theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 53 BLDS 2015. Trong trường hợp này, cha mẹ không phải người giám hộ của con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự nên không phải bồi thường thiệt hại do con gây ra.
>>Xem thêm: Mất xe ở cửa hàng có đòi bồi thường được không?
Tư vấn về trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con cái gây ra
Trên đây là nội dung giới thiệu về “Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con cái gây ra”. Mọi thắc mắc hoặc nhu cầu về pháp luật, Quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi – Công ty Luật Kiến Việt để được tư vấn về các vấn đề:
- Tư vấn về các loại trách nhiệm dân sự do con cái gây ra
- Tư vấn về các trường hợp cha mẹ phải bồi thường thay cho con
- Tư vấn về các trường hợp cha mẹ không phải bồi thường thay cho con
- Tư vấn về xác định con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
- Tư vấn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của trường học, bệnh viện và các tổ chức khác
Để nhận tư vấn, Quý khách vui lòng liên hệ Công ty Luật Kiến Việt theo thông tin dưới đây:
- Website: luatkienviet.com
- Phone: 0386579303
- Email: contact@luatkienviet.com
- Facebook: https://www.facebook.com/luatkienviet
[1] Khoản 4, Điều 21, BLDS 2015.